Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

HỌ LÊ LÀNG VĂN QUỸ !

   LỊCH SỬ VÀ XÂY DỰNG

                                          
(Nhân ngày Giổ Tổ hằng năm(19/5 âl) chúng tôi kính mạo muội ghi một đôi dòng tìm về nguồn cội.Kính mong chư bá thúc huynh đệ HỌ LÊ VIỆT NAM Vị nào biết HỌ LÊ LÀNG VĂN QUỸ đến từ  HOAN CHÂU hay DIỄN CHÂU thì thông tin cho chúng tôi qua email : ledangmanh@gmai.com )
   TỪ ĐƯỜNG HỌ LÊ LÀNG VĂN QUỸ 


                 
                   
      Dựa vào sữ liệu năm Tân Sửu 1301 Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông vi hành sang Chiêm Thành ngoạn cảnh,có hứa gã Huyền Trân Công Chúa cho Vua Chiêm là Chế Mân .Được ít lâu Vua Chiêm mang sính lễ sang dâng tạ để xin cưới Công Chúa,mặt khác xin dâng hai Châu: Châu Ô và Châu Rí

     Đến tháng 6 năm Bính Ngọ 1306, Vua Trần Anh Tông cho phép được rước Hoàng muội  Công Chúa về Chiêm

      Năm 1307 Vua Anh Tông thu nhận 2 Châu Ô và Rí,đổi tên thành Thuận Châu và Hóa Châu,nhận đất xong Vua sai quan Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt Quan sắp xếp công việc ổn định đất đai cho kế lâu dài và tiếp tụThuận Hóa.c đưa dân đàng ngoài vào khai khẩn đất mới ở 2 Châu trên và đổi tên thành Thuận Hóa.

          alt
    

       Tổ tiên chúng tôi hưởng ứng lời kêu gọi của vua Trần Anh Tông vào khai khẩn lập phường theo sự phân bổ của quan Tổng trấn Thuận Hóa ,đến đất này Tổ Tiên định cư theo địa bàn quy định, sinh sống theo từng chi phái gia tộc , khai khẩn lập phường, khai canh trong an cư lạc nghiệp, đoàn kết cùng quý tộc, mở mang bờ cõi xây dựng cơ đồ định nghiệp lâu dài. Mật độ cư trú rãi rác khắp phường, việc quản lý hành chính ra đời, quý Ngài đặt tên đất tên làng gọi là xã Văn Qũy(xa đồng Quỹ,thư đồng Văn)*: gồm 4 giáp Thượng ,Trung, Tiền và Hậu . Tọa trên bờ 2 con suối , tức là sông Ô Lâu và sông Ô Giang, trung tâm sông núi hữu tình, xứng là nơi đất lành chim đậu



                                             BẢN ĐỒ DI TÍCH LÀNG VĂN QUỸ

 

                                                         THƯỢNG MIẾU


                                                                    HẠ MỘ                                        
                                                       
                                         THƯỢNG MIẾU HẠ MỘ
    Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Năm 1407 Hồ Qui Ly cướp ngôi nhà Trần, mặc dầu thời gian trị vì rất ngắn, nhưng có công đánh chiếm 2 châu Chiêm động  và Cổ Lủy của Chiêm Thành rồi đổi thành Thăng Hoa và Tư  Nghĩa tức là Quãng Ngãi và Quãng Nam bây giờ. Dân số nước ta lúc bấy giờ mới trên 3 triệu người.

        Theo PH BIÊN TẠP LUC đến thời LÊ SƠ,bộ máy hành chính được thay đổi như sau:
Năm 1428, Lê Lợi  lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (tuân theo Trời), chia đất nước thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (đều ở vùng Bắc bộ) và Hải Tây (từ Thanh Hóa trở vào). Dưới đạo là trấn, dưới trấn là lộ, dưới lộ là châuhuyện. Cấp hành chính địa phương thấp nhất là . Xã lại chia làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân.
Thời Lê Thái Tổ là hai lộ Tân Bình và Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây, năm 1466 đặt thừa tuyên Thuận Hóa, năm 1490 đổi là xứ Thuận Hóa, Lê Tương Dực đổi là trấn Thuận Hóa. Gồm các phủ :

Tổng là đơn vị hành chính địa phương trung gian giữa huyệnViệt Nam trước năm 1945.
Theo các văn bia còn tồn tại, tổng có từ thời Lê sơ. Tự điền bi ký lập năm 1471 tại xã La Khê, Vũ Thư, Thái Bìnhbia Công chúa tự điền lập năm 1513đền Vũ Bị, Bình Lục, Hà Nam đã thấy nhắc đến cấp tổng.
Các văn bia lập thời Mạc nhắc đến cấp tổng nhiều hơn. Tuy nhiên, vào thời Lê, thời Mạc, thời Lê-Trịnh, tổng không phải là một đơn vị hành chính chính thức giống như đạo, lộ, châu, phủ, huyện, xã. Nó là sự liên kết giữa một vài xã cận kề có chung những đặc trưng về văn hóa, tín ngưỡng, địa lý để cùng làm thủy lợi, bảo trì và cúng tế tại một ngôi đình chung (đình Tổng), hoặc chùa chung (chùa Tổng)
     Đầu thế kỷ 19, khi tổng đã phổ biến trên cả nước, thì nó mới được chuyển thành một đơn vị hành chính chính thức. Mỗi tổng bao gồm khoảng 10 xã, thôn. Đứng đầu chính quyền tổng là cai tổng do tri phủ hoặc tri huyện mà tổng trực thuộc chọn ra. Nhiệm vụ của chính quyền tổng chỉ là đôn đốc thu thuế, giữ gìn an ninh. Muốn thực hiện được các nhiệm vụ này, chính quyền tổng không dùng các cơ quan của mình mà lại dựa vào chính quyền xã.

    Theo chính sử thì năm 1471, sau khi mở mang vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 - Thừa Tuyên Quảng Nam gồm ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây.

   Trên đây là những mốc lịch sử để nghiên cứu mà xác quyết việc di dân đến vùng đất này của Tổ Tiên   tham khảo cũng gợi cho chúng tôi một ý niệm khả dĩ để hình dung so sánh bề dày lịch sử của Tổ Tiên ,qua các Triều Đại hồ sơ Phong Tước Sắc Tặng  bị mai một và lụi tàn theo chiến tranh. Việc phong tặng  sắc tước  cho chư vị Thủy Tổ  được lưu truyền trong văn tự tế lễ mà chấm son mãi lưu giữ đến bây giờ cho hậu thế…

    Vượt lên nhi nữ thường tình, Bổn tộc chúng tôi có Bà Anh hùng Liệt Nữ đã từng Nam chinh Bắc phạt , mặc dầu sắc phong bị thất truyền, nhưng người đời ca tụng quen gọi Bà Xiêm, và văn cúng tế được làng tổ chức  vào ngày 18-08 âm lịch hàng năm với tước vị ban tặng: 

                              MIẾU BÀ Ở ĐỊA PHẬN XÓM ĐÔNG AN
   Bà Chánh Xứ Cao miên Lê thị Húy Nhơn Cập Tả Hữu Thị Tùng Nuôi Rí Bổn Xã Chi Thần. Miếu Mộ của Bà vẫn còn lưu dấu tại Làng Văn Phong,Xã Hải Chánh H Hải Lăng,Tỉnh Quảng Trị"?"

      Đến đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786 hiệu Cảnh Hưng) trong công cuộc dựng đất giữ làng, quý Ngài đại diện các tộc và thân hào nhân sĩ trong làng Văn Qũy cùng với quý Ngài ở làng Câu Nhi lập hội đồng xác định bờ cõi ranh giới  và kiến canh lại ruộng đất. Tổng diện tích thời bấy giờ của làng (Văn Qũy-Văn Trị) khai phá được 478 mẫu.
Như vậy theo sử liệu đối chiếu cùng gia phả  của bổn tộc để khẳng định rằng tổ tiên chúng tôi đến lập nghiệp nơi này hơn 600 năm (1306-2013)
 
    Để tham khảo  lịch sử các Làng quanh vùng mà khẳng định lịch sử Họ LÊ LÀNG VĂN QUỸ đến lập nghiệp,chúng tôi dẫn chứng một vài niên đại dưới đây:
(Bùi Dục Tài (chữ Hán: 裴育才), sinh năm Đinh Dậu (1477-1518). Ông là danh thần đời Lê Túc Tông, thôn Câu Lãm(CÂU NHI),xã Câu Nhi huyện HảiLăng, tỉnh QuảngTrị.
Năm Cảnh Thống thứ 5 (Nhâm Tuất, 1502) đời Lê Hiến Tông, ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân ,đứng thứ 29 trong tổng số 64 người thi đỗ, từ thi Hội đến thi Đình, văn ứng chế đều được khen ngợi, nổi tiếng văn học uyên bác. Được bổ vào Viện Hàn lâm làm Hàn lâm hiệu lí, rồi làm Tham chính đạo Thanh Hóa.)
     Qua biến động thăng trầm của các triều đại , từ năm 1400-1428 bị nhà Minh cai trị rồi đến Trịnh Nguyễn phân tranh. Năm 1753 nhà Tây Sơn giành được độc lập thống nhất sơn hà, đến năm 1802 Nguyến Thế Tổ hiệu Gia Long giành đất nước từ tay Tây Sơn.

   Sự kiện lịch sử như vậy, chiến tranh liên miên là những cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, cho nên từ đường của Bổn Tộc cũng như các công trình văn hóa khác trên quê hương đều bị tàn phá theo ngọn lửa biến binh.

Qua các cuộc trùng tu kiến tạo, vào những năm (1820-1840) đời Nguyễn Thái Tổ hiệu Minh Mạng, từ đường được trùng tu xây dựng trên diện tích trên quy mô rộng lớn, cấu trúc hài hòa, nhìn chung tổng thể: Tiền sảnh 3 cửa nguyệt môn, trang trí hoa văn, lan can theo đời nhà Nguyễn, hậu đường nội điện nhà rường gỗ mít 5 gian, xây gạch bát tràng lợp ngói âm dương, mái góc cong vút điểm tô Long, Lân, Qui, Phụng nối với nhà Tăng là hành lang nhà cầu hình chữ nhất
Trang trí nội điện:
 
·        Tiền Đường có 5 gian:

Gian giữa đặt hương án

Hai gian kế thờ vọng

Hai gian tả hữu đặt 2 bộ trường kỷ và án thư.

·         Nội Điện có 5 gian:

Nơi đây trưng bày thờ tự lộng lẫy uy nghiêm, 3 ngôi khám sơn son thiếp vàng thờ 3 gian.

-         Gian giữa thờ Ngài Thủy Tổ


                                                        Khám Thờ Ngài Thủy Tổ Họ Lê
 
                                
- Gian hữu thờ 3 phái:

               Lê Đăng Phái
                                                    Lê Văn Phái
                                                    Lê Viết Phái

-Gian tả thờ 3 phái:


                                                     Lê Văn Phái

                                                     Lê Sĩ phái

                                                     Lê Công phái

Nhà Tăng có 3 gian 2 chái, nơi đây được xếp đặt gọn gàng ngăn nắp:

·        Gian giữa đặt trường kỷ và án thư

·        Tả hữu và 2 chái là những bộ ngựa trường Kỷ dùng để hội họp trong những ngày giỗ Tổ và cũng là nơi điều hành công việc của các bậc Trưởng Lão Bá Thúc.

   Tô điểm thêm là hoành phi đối liễn làm cho nội điện tăng thêm phần trang nghiêm nơi thờ phụng , đến nay vẫn còn lưu truyền cho hậu thế.
Hoành phi có 3 bức:
·        Bức giữa: "Lạc khoản"Thiệu Trị  năm 1842(Nhâm Dần) 
     PHÚC LÝ ĐƯỜNG    
          
                                                                             ĐỨC DUY HINH
                                                                                                                VẠN CỔ TÌNH


Đối liễn
·        2 câu giữa:
                                               

                      
                     

































                                                  Di quyết tôn mưu thụy diễn chân chân lân chỉ                                                             
                         (Để lại mưu đồ cho tử tôn, dày đặc cháu con thành đạt.)
 
                                                                                          
  
                        Khắc thừa vũ Tổ tường trưng tế tế phụng mao.                                            
                     (Tiếp nối võ nghiệp của tiên tổ, đông đảo đời sau rỡ ràng.)

·        2 câu tả hữu:
                                                 
                                                
                                                                                                                

                              Xuân tự thu thường tuân vạn cổ ,thánh hiền lễ nhạc. 
(Tế lễ hai kỳ xuân thu theo nếp ngàn xưa, đó là lễ nhạc của bậc thánh hiền)
                                                    
                               Tả chiêu hữu mục tự nhứt đường ,thế đợi nguyên lưu
   (Thờ phụng bao đời tả hữu theo thứ trật một nhà, ấy là suối nguồn bao thế hệ)
(Dịch câu đối Thầy Nguyễn Phúc Vĩnh Ba)    


 
       Từ đường tọa bờ Bắc sông Ô LÂU hướng Nam với thế Long Chầu Hổ Phục, chung quanh có bờ thành đá bao bọc, hoa dại cây rừng nguyên sinh quần tụ làm cho miếu mộ Ngài Thủy Tổ và Từ Đường càng thâm nghiêm  u tịch, một vùng sinh thái chim chóc và thú rừng trú ngụ.

         Năm 1975 , trở lại làng xưa Từ đường chỉ còn đóng gạch đổ nát điêu tàn, chúng tôi tìm nhặt những mảnh khí của tiền nhân để lại mà ngậm ngùi cay đắng xót xa:

                                          “Còn đâu mái ngói âm dương

                                          Nguyệt môn tráng lệ hậu đường nguy nga…!

     Được sự đồng tâm của chư Bá Thúc Huynh Đệ qua các thời kỳ,hằng năm các công trình tổng thể Từ Đường được tái tạo nâng cấp bề thế và nguy nga là nơi phụng thờ tôn nghiêm LINH VỊ THẦN CHỦ CỦA NGÀI TIỀN KHAI KHẨN Làng Văn Qũy  .

        Với kiến thức có hạn cho nên có lẽ bài viết không sao tránh khỏi thiếu sót vụng về ,Kính mong được đón nhận những góp ý của chư thức giả trong bổn Tộc cũng như con cháu nội ngoại đang sinh sống trên mọi miền đất nước để bài viết được súc tích và hoàn thiện về lịch sử hơn.

                                                                            LĐM                                                                                       

*GHI CHÚ:

 Thiên Trung Dung sách LỄ KÝ:kim thiên hạ xa đồng QUỸ thư đồngVĂN.

 "Nghĩa là xe  đi cùng một đường,sách viết cùng một thứ chữ "
CÁC SÁCH THAM KHẢO:
      PHỦ BIÊN TẠP LUC

        Ô CHÂU CẬN LỤC

       VIỆT NAM SỬ LƯỢC

      VIỆT NAM THỰC LỤC
  Bách khoa toàn thư

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

TỪ ĐƯỜNG LÊ TỘC !

                                              PHÚC LÝ ĐƯỜNG


                                             
                                                      KHÁM THỜ NGÀI THỦY TỔ